Tên di sản : Bia chùa Cao và địa điểm lịch sử Phủ Trung
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 3837/QĐ-UBND
Giới thiệu
Bia chùa Cao (tức chùa Mỗi Mông):
Sự còn lại của tấm bia chùa Cao chính là bằng chứng xác thực về sự ra đời và tồn tại của một ngôi chùa cổ trong 5 thế kỉ liền ở trái núi Cao (tức núi Viễn Vông) này. Và như phần trước đã nêu thì sự tồn tại của tấm bia đã giúp chúng ta tìm hiểu chính xác hơn về vùng đất lịch sử Đại Bằng – Thị Thôn của Kim Âu xưa, đồng thời khẳng định ở nơi chùa này đã từng rất bề thế, có thiên trụ đài và bảo khí quốc gia (tức chuông lớn) mà họ Đoàn đã từng công đức để làm nên. Tấm bia tuy không lớn và số chữ không nhiều nhưng nội dung trong văn bia lại phản ánh được rất nhiều vấn đề về văn hoá tín ngưỡng, về việc tiến cúng ruộng đất, tiền bạc và công sức để tôn tạo chùa của người đương thời là để cầu mong cho hậu thế “Có mệnh mạch dài lâu” và con cháu thì đời đời được vinh hoa, hưng vượng. Đó chính là đạo lí truyền thống thật đáng ngợi ca, ghi nhận.
Có thể nói, nếu xem xét và phân tích mổ xẻ từng chữ, từng dòng một ở tấm bia, chúng ta có thể đánh giá đây là một tác phẩm văn khắc vô cùng giá trị về nhiều phương diện (cả lịch sử, văn hoá, tín ngưỡng, địa danh,…), đồng thời đây cũng là một di tích – di vật có giá trị cả về mặt nghệ thuật điêu khắc điển hình ở thời đại Hậu Lê cuối thế kỉ XVII.
Ngoài tấm bia, dấu vết của nền móng và các di vật vùng cảnh quan xung quanh mà chúng ta có thể sờ thấy, nhìn thấy đều chứng tỏ ngôi chùa cổ ở đây quả là rất quy mô. Từ trên sườn cao của quả núi, ngôi chùa chắc chắn đã từng là một thắng cảnh nổi tiếng và niềm tự hào của người dân địa phương.
Đền Phủ Trung (tức đền Cối Thị):
Mặc dù kiến trúc nguy nga 4 toà không còn nữa, nhưng hình ảnh về đền Phủ Trung (tức đền Cối Thị) vẫn còn hằn sâu trong tâm thức và trí nhớ của người xa gần. Đây chính là một địa chỉ thờ Mẫu và thờ Trần Hưng Đạo rất nổi tiếng. Cho đến bây giờ, nhiều người vẫn còn nhớ về 3 pho tượng đồng cỡ lớn ở đây cùng rất nhiều di vật quý trong các cung thờ.
Hiện tại, rất may là dân địa phương vẫn còn lưu giữ được 8 pho tượng Mẫu và Đức Ông được đắp nặn bằng chất liệu bột giấy, mật, vôi,… Chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu cách đắp nặn như thế nào, nhưng cả 8 pho tượng này đều hết sức độc đáo và sinh động. Mỗi pho là một phong cách, không pho nào giống pho nào. Ngay cả lối tô vẽ màu sắc cho mỗi pho cũng cho ta thấy tài nghệ của các nghệ nhân dân gian quả là rất đáng nể trọng. Có thể nói, 8 pho tượng còn lại này chính là 8 tác phẩm điêu khắc dân gian đặc sắc và độc đáo hơn bất kể chỗ nào. Và nó lại càng độc đáo và càng quý giá bởi đây không phải là tượng đồng hay tượng gỗ như ta thường thấy, mà đây là tượng nặn đắp bằng các chất liệu dân gian thường đắp rồng, phượng trên nóc và trên mái vậy. Nhìn những pho tượng nặn đắp cổ kính này, chúng ta càng có thêm nhận định nghệ thuật điêu khắc dân gian quả là rất đa dạng và phong phú.
Cho nên chỉ riêng những di vật còn lại (bia hậu, rùa đá, chân tảng, bát hương và đặc biệt là 8 pho tượng đắp nặn độc đáo) di tích Phủ Trung (đền Cối Thị) đã xứng đáng được công nhận. Và di tích này lại càng đáng được công nhận, bởi nơi đây không những là một trung tâm tín ngưỡng thiêng với các hình thức lễ hội phong phú, sinh động mà còn là địa điểm đã từng diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trong thời kì tiền khởi nghĩa trước năm 1945 và góp phần tạo nên thắng lợi to lớn cho cuộc tổng khởi nghĩa ở huyện Hà Trung. Rất nhiều cán bộ hoạt động cách mạng trước năm 1945 vẫn luôn nhớ về Phủ Trung (đền Cối Thị) với rất nhiều kỉ niệm đẹp trong những năm tháng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Và tất cả đều mong muốn di tích được sống lại như những ngày xưa ấy.
Cho nên, với địa điểm Phủ Trung, ngoài giá trị văn hoá và kiến trúc nghệ thuật thông qua những hiện vật và dấu tích hiện còn, chúng ta càng thấy rõ về giá trị lịch sử của thời kì cách mạng 1939 – 1945 được diễn ra ở đây thật rất đáng ghi nhận. Những chiến sĩ tự vệ cứu quốc đã hội quân ở đây, đã họp hành ở đây và đã từ đây đi phá đường bộ, đường sắt, cắt dây điện thoại rồi cùng cả huyện làm nên cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945) thật nhanh gọn và hùng tráng. Cho nên, gọi Phủ Trung là địa điểm lịch sử của thời kì cách mạng 1939 – 1945 cũng là điều chính xác và đúng với cái mà nó vốn có.